Một số kiến nghị sửa đổi luật Vụ án Hàn Đức Long

Luật sư bào chữa cho rằng vụ án là oan sai. Việc bắt giam và kết tội Long không dựa trên bất cứ một chứng cứ trực tiếp nào mà chỉ dựa vào lời khai nhận tội và suy diễn. Sau 4 tháng không tìm ra thủ phạm, cơ quan điều tra dựa vào lời tố cáo hiếp dâm của bà Khuyến, chị Năm để bắt Long, sau đó có được lời thú tội của Long về vụ cháu Yến. Nhưng trong suốt 8 năm với 4 phiên tòa, HĐXX đều tuyên Long không phạm tội hiếp dâm bà Khuyến, chị Năm trong khi bị hại còn sống, nhưng lại tuyên Long giết hiếp cháu Yến mặc dù bị hại đã chết.

Luật sư bào chữa cũng cho rằng từ vụ án này nổi lên hai vấn đề đặc biệt đáng quan tâm của hệ thống tư pháp mà lâu nay dư luận đã phản ảnh nhiều, đó là tình trạng truy bức nhục hình trong quá trình điều tra và tình trạng duyệt án từ trước và không căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Sau đây là kiến nghị về một số vấn đề pháp lý của luật sư bào chữa.

Quyền được giữ im lặng của bị can, bị cáo

Xét về bản chất của con người thì không ai phản bội lại chính mình, việc khai báo hôm nay có thể chống lại mình ngày mai nên bình thường không ai muốn khai báo. Trong thực tế, chỉ nhờ truy bức nhục hình thì cơ quan điều tra mới buộc bị can khai báo.

Xét về bản chất của luật pháp, việc điều tra xử lý tội phạm chính nhằm bảo vệ luật pháp, bảo vệ các quyền công dân, như vậy việc bức hiếp buộc khai báo đã xâm phạm tới một quan hệ pháp luật khác cũng cần được pháp luật bảo vệ, đó là quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của công dân.

Như vậy việc xử lý vụ án ban đầu mang ý nghĩa tốt, nếu sử dụng nhục hình thì đó lại là cách thức phản lại chính ý nghĩa ban đầu của việc điều tra xử lý tội phạm. Đây là sự bất dung hòa về thang giá trị giữa phương tiện và mục tiêu.

Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 6 quy định: Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.

Thực tế việc truy bức nhục hình vẫn xảy ra dưới hình thức này hình thức khác. Để giải quyết tình trạng này cần quy định bị can bị cáo được quyền giữ im lặng hoặc chỉ đồng ý khai báo khi việc lấy lời khai có sự tham gia của luật sư bào chữa. Đây cũng là quy định văn minh tiến bộ mà tố tụng hình sự nhiều nước đã quy định.

Quy định lời khai của bị can bị cáo không là chứng cứ

Bộ luật tố tụng hình sự hiện tại quy định chứng cứ như sau:

Điều 64. Chứng cứ

1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

2. Chứng cứ được xác định bằng:

A) Vật chứng;

B) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

C) Kết luận giám định;

D) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

Quy định như trên chỉ coi trọng về quy trình thu thập chứng cứ mà không coi trọng tính chân thực của chứng cứ. Quy định chứng cứ là những gì có thật là chưa đủ, cần bổ sung thêm chứng cứ phải mang giá trị khách quan.

Xét ví dụ lời khai của bị cáo có là chứng cứ hay không thì thấy: Có việc bị cáo khai báo, đó là cái có xảy ra và đó là sự thật. Nhưng điều quan trọng không phải là sự thật về bản thân việc khai báo mà quan trọng là sự thật trong nội dung khai báo.

Chứng cứ phải tồn tại ở thời điểm xảy ra vụ án, như thế mới có thể giúp làm sáng tỏ vụ án. Các tài liệu như biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, thì đây là các giấy tờ phát sinh sau này, không tồn tại ở thời điểm xảy ra vụ án. Đó đơn thuần chỉ là các tài liệu trong hồ sơ vụ án giống như các quyết định khởi tố vụ án, lệnh bắt giam, đó không phải là cơ sở để xác định diễn biến sự việc đã xảy ra như thế nào.

Quy định lời khai của bị can bị cáo cũng là chứng cứ nên thực tế đã xảy ra tình trạng là cơ quan điều tra thay vì đi tìm các tài liệu bằng chứng xác thực khác, họ chỉ xoáy sâu vào việc bắt giam sau đó truy bức nhục hình cho người này khai nhận hành vi phạm tội, từ đó cho ra kết luận điều tra.[11]

Điều tra viên phải là người tham gia tố tụng

Bộ luật tố tụng hình sự hiện tại quy định Điều tra viên là người tiến hành tố tụng mà không phải là người tham gia tố tụng. Theo luật sư bào chữa, điều này cần được sửa lại theo hướng điều tra viên phải tham gia tố tụng tại phiên tòa.

Nhiều tài liệu chứng cứ cần thiết phải được xác định lại nguồn gốc quy trình thu thập từ đó xác định chứng cứ có được thu thập hợp pháp hay không để có đủ giá trị pháp lý cũng như độ tin cậy hay không.

Hiện nay điều tra viên không phải tham gia tố tụng do vậy không có điều kiện để thẩm định lại quy trình thu thập chứng cứ, không có cơ hội đối chất giữa cán bộ điều tra và bị cáo trong việc xác định có hay không sự truy bức nhục hình.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vụ án Hàn Đức Long http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/06/150616... http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/12/151213... http://ngongoctrai.com/ban-an-so-tham-lan-2-nam-20... http://dantri.com.vn/xa-hoi/8-diem-tuong-dong-giua... http://laodong.com.vn/phap-luat/van-phong-luat-su-... http://danviet.vn/phap-luat/chi-huy-dieu-tra-vu-an... http://www.luatcongchinh.vn/post.asp?channel=Nghie... http://www.luatcongchinh.vn/post.asp?channel=Nghie... http://www.luatcongchinh.vn/post.asp?channel=Nghie... http://www.luatcongchinh.vn/post.asp?channel=Nghie...